Quy hoạch tổng thể phát triển thủy sản đến 2020, tầm nhìn 2030 trong mối liên quan tới ứng phó BĐKH và sinh kế CĐ nghề cá
(11/08/2019 12:00:00 SA)
Ứng
phó với BĐKH và phòng tránh rủi ro thiên tai trong lĩnh vực thuỷ sản,
hơn lúc nào hết ngành thuỷ sản nhấn mạnh và quan tâm sâu sắc đến các
cộng đồng nông, ngư dân sản xuất quy mô nhỏ ven bờ - một trong những đối
tượng dễ bị tổn thương trước tác động của BĐKH.
Bởi vậy, trong quy hoạch tổng thể (QHTT) phát triển ngành thuỷ sản đến
năm 2020, tầm nhìn 2030 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (QĐ số
1445/QĐ-TTg ngày 16/8/2013), một trong năm quan điểm chủ đạo được phê
duyệt nhằm phát triển bền vững nghề cá đến năm 2020 là quan điểm liên
quan đến phát triển liên ngành và ứng phó với BĐKH cũng như quản lý rủi
ro thiên tai, an ninh trên biển “Phát triển thuỷ sản trong mối quan
hệ kết hợp hài hòa lợi ích với các ngành kinh tế khác,…., thích ứng với
BĐKH, bảo vệ môi trường, hệ sinh thái và nguồn lợi thuỷ sản, gắn với bảo
vệ chủ quyền quốc gia và an ninh quốc phòng trên các vùng biển đảo”. Đặc biệt, đối với các cộng đồng nông, ngư dân ven bờ, quan điểm thứ năm trong QHTT ngành cũng nhấn mạnh “Cải
thiện điều kiện sống, nâng cao thu nhập của cộng đồng ngư dân,… gắn với
phát triển nông thôn mới vùng ven biển, và xây dựng các làng cá giàu
đẹp, văn minh”.
Theo các quan điểm này, QHTT ngành mới được phê duyệt đã nhấn mạnh đến
các giải pháp về thông tin liên lạc và đảm bảo an toàn cho ngư dân và
tài sản của họ khi hoạt động trên biển, đến các giải pháp công trình và
phi công trình để hỗ trợ ngành ứng phó hiệu quả với BĐKH, đặc biệt là
việc bảo tồn và phát triển bền vững các hệ sinh thái có liên quan đến
nghề cá để đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững của nghề cá, trong đó có
sinh kế của các cộng đồng nông, ngư dân ven biển.
Trong bối cảnh BĐKH, nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng, thiên tai và
thay đổi lượng mưa làm cho các hệ sinh thái, sản lượng đánh bắt cá, sản
lượng nuôi trồng, cơ sở hạ tầng và sinh kế nghề cá dễ bị tổn thương. Đặc
biệt là nghề cá quy mô nhỏ với hàng triệu hộ gia đình sống nhờ vào
nguồn sinh kế là khai thác nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên tại các hệ sinh
thái điển hình ven biển. Ở những khu vực này, thủy sản là nguồn thu nhập
duy nhất hoặc nguồn thu nhập chính của nhiều hộ gia đình. Sự phụ thuộc
này liên quan tới sản lượng thuỷ sản và tình trạng chất lượng của hệ
sinh thái như rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển, các khu vực đầm
phá… là các khu vực sinh sản của nguồn lợi thủy sản. Tác động của BĐKH
lên nghề cá, đặc biệt là nghề cá quy mô nhỏ rất đa dạng, BĐKH tác động
lên các HST điển hình ven bờ - là cái nôi của nghề cá, tác động lên bản
thân cộng đồng ngư dân, nông dân nuôi trồng thuỷ sản và sinh kế của họ,
lên hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất thuỷ sản, lên năng suất
sản lượng nuôi trồng thuỷ sản và khai thác thuỷ sản, lên cơ cấu đối
tượng sản xuất, phương thức và công nghệ sản xuất mà theo đó các hoạt
động thuỷ sản được thực hiện… Cộng đồng những người ngư dân và nuôi
trồng thuỷ sản quy mô nhỏ ven biển, hơn ai hết là những đối tượng dễ bị
tổn thương nhất và chịu tác động trực tiếp, đầu tiên từ BĐKH. Chính vì
vậy, để góp phần thực hiện thành công mục tiêu và quan điểm về đa dạng
sinh kế thích ứng với biến đổi khí hậu và cải thiện thu nhập cho cộng
đồng nông, ngư dân ven biển trong QHTT ngành, rất cần thiết phải có các
nghiên cứu, thử nghiệm về các sinh kế thích ứng để nâng cao khả năng ứng
phó cho cộng đồng nghề cá dễ bị tổn thương và sự cần thiết hợp tác dài
hạn giữa các đối tác ngoài nhà nước và các cơ quan của Chính phủ.
Để đạt được mục tiêu phát triển của nghề cá đến năm 2020 (như đã được
xác định trong QHTT ngành): sản lượng thuỷ sản đạt 7 triệu tấn, KNXK đạt
11 tỷ USD, thu nhập bình quân của lao động nghề cá cao gấp 3 lần hiện
nay, góp phần xây dựng các làng cá giàu đẹp, văn minh, không thể thiếu
được sự tham gia hợp tác, hỗ trợ của các đối tác ngoài nhà nước trong
việc thúc đẩy thực hiện quy hoạch này và các cơ chế hợp tác liên ngành,
liên địa phương vì sự bền vững của cộng đồng nghề cá. Đây là yếu tố quan
trọng để đảm bảo sự thành công của quy hoạch mới được phê duyệt.
ThS. Cao Lệ Quyên
|