Một số mô hình xử lý nước thải trong nuôi tôm thâm canh tại Việt Nam
(13/10/2022 12:00:00 SA)
Tại Việt Nam, nuôi tôm nước lợ đã phát triển mạnh mẽ
trong gần hai thập kỷ qua, trở thành ngành hàng xuất khẩu chủ lực và là ngành
kinh tế quan trọng, đã và đang mang lại hiệu quả kinh tế và xã hội thiết thực,
có ý nghĩa to lớn trong giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống và tăng
thu nhập cho hàng triệu người dân. Năm 2021, sản lượng tôm nuôi nước lợ đạt 943.000 tấn, trong đó, tôm Thẻ chân trắng 663.000 tấn (chiếm 70,3%).
Ảnh minh họa.
Bên cạnh kết quả về kinh tế
và xã hội,
trong quá trình nuôi tôm nước lợ, một lượng chất thải từ quá trình này đang thải ra
môi trường như: nước thải, bùn
thải, rác thải, xác của thủy sản, chất thải của thủy sản nuôi,… Nước thải thường có màu và mùi khó chịu, lượng oxy trong
nước thấp. Nước thải, bùn
thải từ các ao nuôi tôm thường chứa lượng lớn Nitơ, phốt pho cùng một số hợp chất
carbonic… Chất hữu cơ trong nước thải/bùn thải dễ dàng làm giảm oxy và tăng hàm lượng COD, BOD, sulfit
hydrogen, amoniac, metan,…
trong môi trường nước.
Những chất thải trên nếu không xử lý, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sinh trưởng
và phát triển của tôm nuôi. Đặc biệt là chất thải có chứa nhiều mầm bệnh ảnh hưởng đến cả tôm nuôi cũng như tác động đến sức khỏe con người.
Trong những năm vừa qua, đã
có rất nhiều mô hình xử lý nước thải, bùn thải từ các ao nuôi tôm được triển
khai và mang lại hiệu quả tích cực.
1. Mô
hình xây dựng hệ thống xử lý nước
thải nuôi tôm sử dụng các đối tượng sinh học tại Cà Mau
Mô hình được thực hiện tại khu nuôi tôm công nghiệp
có 3 ao nuôi với mật độ 25 con/m2. Hệ thống xử lý gồm một rãnh lắng bùn, một ao xử lý và một ao chứa. Nước thải
từ khu nuôi tôm sẽ được bơm ra ao xử lý có thả sò huyết mật độ 80 con/m2.
Hút bùn sẽ dược chuyển qua rãnh lắng bùn sau đó mới chuyển sang ao xử lý. Nước
được để trong ao xử lý sau khoảng 15 ngày sẽ chuyển sang ao chứa. Trong ao chứa
có thả thêm cá vược và cá rô phi để tăng hiệu quả xử lý, thanh lọc cho đến khi
nước có chất lượng bình thường thì đưa tuần hoàn trở về ao nuôi theo chu trình
khép kín mà không cần dùng đến những hóa chất xử lý nước
hay thải ra môi trường.
Kết quả sau 4 – 5 ngày đưa nước thải ra ao xử lý hiệu quả xử lý N-NH4+ đạt trên 90%; hiệu suất xử
lý BOD sau 13
ngày đạt trên 80%. Hàm lượng N-NO2‑, N-NO3-, P-PO43- đều đạt tiêu chuẩn cho phép.
2. Mô hính sử dụng rong sụn hấp thụ muối amoni
Trồng rong sụn trong ao sau
khi thu hoạch tôm giúp xử lý được chất đáy ao nuôi khỏi bị nhiễm bẩn bởi các chất
thải tích luỹ trong quá trình nuôi tôm có hiệu quả cao. Rong sụn có thể giúp
cho quá trình phân huỷ các chất hữu cơ trong chất đáy ao nhanh và hấp thụ các sản phẩm phân huỷ với tốc độ cao góp
phần tích cực vào việc xử lý, làm vệ sinh ao, không gây ô nhiễm tới vùng xung
quanh. Ngoài việc giúp xử lý ô nhiễm đáy ao, người nông dân còn có nguồn thu nhập
phụ từ rong sụn trong thời kỳ chuyển vụ.
Sau 24 giờ, hàm lượng amoni trong nước từ 1.070,49 mg/l giảm xuống còn
830,10 mg/l đối với mật độ rong 400 g/m2, tương ứng trên 20%. Ðến
ngày thứ 5 thì ở mọi mật độ rong đã làm cho hàm lượng amoni trong nước giảm đi
hơn 80% và giữ ở mức đó cho tới ngày thứ 10, chỉ còn 10%
so với ngày đầu. Ðối với photpho, sau 24 giờ rong sụn
hấp thụ được từ 30 đến 60%.
3. Mô hình xử lý nước thải nuôi tôm tại Phú Yên
Mô hình 1: Trang trại có ao
xử lý nước thải riêng biệt: Nước thải từ ao nuôi tôm bơm vào ao xử lý (ao
nuôi cá rô phi và trồng rong). Sau khi xử lý, nước được cấp lại cho ao nuôi
tôm. Tôm khi thả nuôi được 45 ngày tiến hành bơm đáy ao cho vào ao nuôi cá rô
phi, cá sẽ xử lý các chất hữu cơ lơ lửng có trong nước làm cho nước sạch lần 1.
Sau 7 ngày nước từ ao cá được chuyển sang ao rong sẽ được
rong hấp thụ các chất vi lượng làm cho nước sạch lần 2 để cung cấp cho ao nuôi
tôm. Đây là quy trình nuôi hạn chế sử dụng hóa chất và thuốc thú y thủy sản và
khép kín nguồn nước.
Mô hình 2: Ao nuôi có sử dụng
cá rô phi trực tiếp: Cắm các giai rô phi trực tiếp trong các ao nuôi tôm. Các
chất hữu cơ lơ lửng của thức ăn tôm dư thừa sẽ được quạt nước đẩy vào giai làm
thức ăn cho cá rô phi. Ngoài ra chính lượng phân thải từ cá rô phi là mô hình
thuận lợi cho sự phát triển và một số loài vi sinh vật có lợi cho tôm phát triển.
Kết quả là chất thải nuôi
tôm được xử lý và cung cấp lại cho ao nuôi tôm,
giảm ô nhiễm môi trường xung quanh, góp phần bảo vệ môi trường vùng nuôi.
Trong thời gian tới các tập
thể và cá nhân cũng đẩy mạnh hướng phát triển nuôi tôm nước lợ theo mô hình
kinh tế tuần hoàn, chất thải từ ao nuôi tôm sẽ tái sử dụng hoặc làm nguyên liệu
đầu vào các các quy trình sản xuất khác.
VIFEP (Hồng Ngân)
|