Xuất khẩu tôm Việt Nam phát triển mạnh trong 10 năm qua
(20/08/2019 12:00:00 SA)
Sau 10 năm thực
hiện Nghị quyết số 26-NQ / TW về nông nghiệp, nông thôn, nông dân (2008 -
2018), kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã tăng gấp đôi. Trong đó, xuất khẩu
tôm chiếm tỷ trọng lớn nhất và tăng trưởng mạnh nhất, ổn định nhất.
Sau 10 năm,
kim ngạch xuất khẩu tôm tăng gần 2,5 lần từ 1,6 tỷ USD lên gần 3,9 tỷ USD, với
mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 9%. Xuất khẩu tôm chiếm tỷ trọng ngày
càng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản: từ 36% lên hơn 50%.
Ngành tôm đóng một
vai trò quan trọng trong xuất khẩu thủy sản Việt Nam ra thế giới trong suốt 2
thập kỷ. Hàng năm, ngành tôm đóng góp khoảng 40-45% tổng giá trị, tương đương
3,5- 4 tỷ USD / năm. Hiện tôm của Việt Nam được xuất khẩu sang 100 nước, trong
đó có 5 thị trường lớn nhất sau: Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc.
Với những nỗ lực không ngừng, Việt Nam là nhà cung cấp tôm hàng đầu thế giới thứ
hai với 13-14% giá trị trên thị trường tôm thế giới.
Việt Nam có rất
nhiều lợi thế để phát triển ngành tôm, đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu
Long, nơi chiếm 95% sản lượng tôm và cũng là trung tâm của các nhà máy chế biến
tôm. Cho đến nay, có khoảng 200 nhà máy chế biến tôm đã được Ủy ban Châu Âu phê
duyệt với việc kiểm tra định kỳ tại cơ sở ở Việt Nam.
Để có được những
thành tựu đáng kể đó, kể từ khi thành lập vào đầu những năm 1990, ngành tôm Việt
Nam đã phát triển cả về quy mô, kỹ thuật quản lý và năng lực về chất lượng,
truy xuất nguồn gốc, quản lý các tác động đến môi trường trong toàn bộ chuỗi
cung ứng, bắt đầu từ các trại sản xuất giống, nhà máy thức ăn chăn nuôi, các
trang trại và nhà máy chế biến dẫn đến xuất khẩu thông qua các cơ sở trữ lạnh
hiện đại. Bằng chứng đáng tin cậy nhất cho thấy nuôi tôm an toàn và bền vững có
thể được tìm thấy bởi sự tồn tại của số lượng ngày càng nhiều các chương trình
chứng nhận do các cơ quan tiêu chuẩn quốc tế đưa ra về Thực hành nuôi trồng thủy
sản tốt bao gồm BAP (Thực hành nuôi trồng thủy sản tốt nhất), Global Gap và ASC
(Quản lý nuôi trồng thủy sản Hội đồng). Để đạt được các chứng nhận này, các
trang trại phải được xây dựng và vận hành dựa trên các tiêu chí:
- Tuân thủ pháp
luật (tuân thủ pháp luật, hợp pháp đến nơi đến chốn).
- Bảo về môi trường
tự nhiên và đa dạng sinh học.
- Bảo về tài
nguyên nước.
- Bảo về sự đa dạng
của các loài và quần thể hoang dã
- Sử dụng nguồn
cấp dữ liệu và các nguồn lực khác một cách có trách nhiệm.
- Thú y (không sử
dụng kháng sinh và các hóa chất không cần thiết).
- Trách nhiệm xã
hội (ví dụ: không có lao động trẻ em, sức khỏe và an toàn của người lao động, tự
do hội họp, quan hệ cộng đồng).
Do các doanh
nghiệp tôm là thành viên của VASEP đóng góp khoảng 90% lượng tôm xuất khẩu của
Việt Nam, do đó, VASEP thông qua Ủy ban Tôm của mình đã phối hợp với Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (MARD), NAFIQAD thuộc Bộ NN & PTNT để giải
quyết các vướng mắc, vướng mắc của ngành. bao gồm đảm bảo chất lượng, vệ sinh
an toàn và tuân thủ các quy tắc, quy định của pháp luật Việt Nam và thị trường
nước ngoài.
Nhờ có sự phối hợp
giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (MARD), Cục Quản lý Chất lượng Nông
lâm sản và Thủy sản (NAFIQAD) thuộc Bộ NN & PTNT và Hiệp hội Chế biến và Xuất
khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) trong việc đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn
và việc tuân thủ các quy tắc, quy định của pháp luật Việt Nam và thị trường nước
ngoài, các chứng nhận tiên tiến và tuân thủ Luật Lao động, Luật An toàn thực phẩm
và các quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các công ty tôm
đang thực hiện tốt các quy trình nuôi và chế biến. thực vật bao gồm cả sản phẩm
tôm. Bên cạnh đó, hàng năm, các công ty phải được kiểm tra bởi các cơ quan kiểm
toán độc lập, các tổ chức chứng nhận quốc tế và các cơ quan chức năng của Việt
Nam.
Để duy trì 100
thị trường nhập khẩu và phát triển thị trường mới, các doanh nghiệp tôm Việt
Nam phải giữ uy tín bằng việc kiểm soát toàn bộ hệ thống để đáp ứng các yêu cầu
và quy định ngày càng cao của thị trường thế giới. Một số ví dụ bao gồm:
- Đối với vấn đề
lao động: thời giờ làm việc của người lao động tại các công ty tôm Việt Nam được
áp dụng theo quy định của Bộ luật Lao động 2012, Nghị định 45/2013 / NĐ-CP ngày
10/05/2013 của Chính phủ.
- Công đoàn tại
các doanh nghiệp tôm: Luật quy định mọi công ty tôm phải kê khai và đăng ký Quy
chế làm việc với Sở Lao động, Thương binh và Xã hội địa phương để bảo vệ quyền
lợi của người lao động bao gồm thời gian làm việc và điều kiện lao động…
- Việc đạt được ASC, Global GAP và
các tiêu chuẩn quốc tế khác cho thấy người nuôi và chế biến tôm Việt Nam không
được phép sử dụng kháng sinh và các hóa chất không cần thiết trong chuỗi sản xuất
của mình. Quan trọng nhất, các cơ quan chức năng của Việt Nam hiện đã có các
quy định và chương trình kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng hóa chất, kháng sinh
trong nuôi trồng và chế biến thủy sản. Tổng cục Thủy sản (D-Fish) và cơ quan quản
lý ngành thủy sản các địa phương thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra việc sử dụng
kháng sinh và phát triển ngành tôm theo hướng liên kết chuỗi (có hợp đồng chặt
chẽ, sản xuất có kiểm soát, không sử dụng hoặc hạn chế sử dụng kháng sinh, ổn định
tiêu thụ sản phẩm ...), nuôi tôm chứng nhận.
- Việt Nam đã và đang thực hiện
Chương trình giám sát tồn dư quốc gia (theo Thông tư số 31/2015 / TT-BNNPTNT
ngày 06/10/2015) do NAFIQAD thực hiện và hàng năm gửi báo cáo kết quả năm trước
và kế hoạch năm sau. sang EU.
- Đối với cơ sở chế biến, xuất khẩu
thủy sản: đã và đang thực hiện chương trình giám sát nội bộ, phòng ngừa tồn dư
kháng sinh trong sản phẩm (bắt buộc theo Thông tư số 48/2013 / TT-BNNPTNT): Lấy
mẫu xét nghiệm dư lượng kháng sinh, độc chất ở nông trại trước khi thu hoạch; Lấy
mẫu kiểm tra dư lượng kháng sinh để kiểm soát khi tiếp nhận nguyên liệu trước
khi chế biến.
- Trước khi xuất khẩu, cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam (NAFIQAD) lấy mẫu từ lô hàng để kiểm tra dư lượng kháng
sinh trước khi cấp giấy chứng nhận sức khỏe theo yêu cầu hợp pháp của các cơ
quan kiểm tra biên giới Châu Âu đối với tất cả các lô hàng nhập khẩu tôm và tất
cả thực phẩm từ Việt Nam sang Châu Âu. thị trường
Với quy trình kiểm soát chặt chẽ
như vậy, các mặt hàng thủy sản, tôm xuất khẩu của Việt Nam đã đáp ứng các quy định
về chỉ số kháng sinh của thị trường EU cũng như các thị trường khác. Kết quả là
những năm gần đây, xuất khẩu tôm sang thị trường EU tăng trưởng rất tốt. Năm
2017, xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường này đạt gần 863 triệu USD, tăng
43,7% so với năm 2016. Trong 7 tháng đầu năm 2018, xuất bán sang thị trường EU
đạt 480 triệu USD, tăng 26% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong hai năm qua và đến
nay, tôm Việt Nam không nhận được cảnh báo nào từ EU.
Ngành tôm Việt Nam đang phát triển
tốt và chúng tôi tin rằng ngành có đủ điều kiện thuận lợi để phát triển theo hướng
bền vững hơn, tuân thủ các quy định của pháp luật quốc gia và quốc tế về điều
kiện lao động, trách nhiệm xã hội và an toàn thực phẩm.
VIFEP (TH)
|