Lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và tỉnh Sóc Trăng chủ trì hội nghị.
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong năm 2022,
diện tích nuôi tôm nước lợ đạt 747.000ha, trong đó diện tích nuôi tôm
sú 610.000ha, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng hơn 117.000ha, còn lại
là tôm càng xanh và tôm khác; sản lượng tôm nuôi các loại đạt trên 1
triệu tấn (tăng 8,5% so với năm 2021), trong đó, sản lượng tôm sú đạt
hơn 271.000 tấn; sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt hơn 743.000 tấn, tăng
hơn 11% so cùng kỳ năm 2021. Về nhập khẩu, nước ta nhập khẩu 328 con tôm
sú bố mẹ, 184.859 tôm thẻ bố mẹ, 44.800 con hậu ấu trùng tôm sú và
16.000 con hậu ấu trùng tôm thẻ, cùng với đó trong nước sản xuất được
21.000 con tôm thẻ chân trắng bố mẹ và 20.000 con tôm sú bố mẹ; cả nước
có 2.294 cơ sở sản xuất ươm dưỡng giống tôm nước lợ, với sản lượng tôm
giống năm 2022 đạt 159,5 tỷ con (bằng 110% so với năm 2021).
Tại hội nghị, đại biểu đã có những ý kiến chung quanh các nội dung trọng
tâm như: công tác kiểm soát chất lượng, an toàn thực phẩm tôm nuôi năm
2022, hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển thị trường thủy sản;
hoạt động liên kết trong phát triển sản xuất của ngành tôm Việt Nam; văn
hóa bền vững của ngành công nghiệp tôm; vấn đề kiểm dịch đầu vào đối
với tôm giống; vốn vay để phát triển nuôi tôm...
Theo đó, kế hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong năm
2023 về diện tích nuôi tôm đạt 750.000ha; sản lượng tôm các loại trên 1
triệu tấn, trong đó tôm sú 280.000 tấn, tôm thẻ chân trắng 750.000 tấn,
còn lại là tôm càng xanh và tôm khác. Kim ngạch xuất khẩu trên 4,3 tỷ
USD.
Để kết quả nuôi tôm và kim ngạch xuất khẩu đạt kế hoạch đề ra, đồng chí
Phùng Đức Tiến đề nghị các địa phương tổ chức liên kết giữa các địa
phương tham gia chuỗi tôm, đảm bảo chuỗi sản xuất tôm vận hành liên
hoàn; ngăn chặn kịp thời những sản phẩm như con giống, thức ăn thủy sản,
sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản không đảm bảo chất lượng
tới người tiêu dùng; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về an toàn
thực phẩm trong nuôi trồng thủy sản nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm
phục vụ chế biến, tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; tranh thủ các nguồn
đầu tư hạ tầng vùng nuôi; chỉ đạo thực hiện tốt các quy định về điều
kiện nuôi, đăng ký đối tượng nuôi chủ lực; tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra, kiểm soát điều kiện cơ sở sản xuất và chất lượng giống,
thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản; kiên
quyết xử lý sai phạm (nếu có); quan trắc, cảnh báo môi trường để kịp
thời khuyến cáo, cảnh báo cho người nuôi; hướng dẫn các biện pháp phòng,
chống dịch bệnh, thực hiện tốt các giải pháp kỹ thuật để nuôi tôm hiệu
quả, giảm thiểu tối đa thiệt hại cho người nuôi; nhân rộng mô hình nuôi
tôm của tỉnh Sóc Trăng đến các tỉnh nuôi tôm vùng đồng bằng sông Cửu
Long…
Đối với các doanh nghiệp, người nuôi tôm phải thực hiện nghiêm các quy
định của pháp luật về nuôi trồng thủy sản; xây dựng kế hoạch, chuẩn bị
sẵn các điều kiện để chủ động sản xuất trong điều kiện khó khăn như hạn
hán, xâm nhập mặn, biến động môi trường dẫn đến dễ pháp sinh dịch bệnh,
cộng với giá vật tư đầu vào tăng cao; nâng cao chất lượng sản phẩm; hợp
tác, liên kết sản xuất theo chuỗi để giảm khâu trung gian, giảm giá
thành sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm; áp dụng các hình thức nuôi
có chứng nhận VietGAP, GlobalGAP, ASC…
VIFEP (ĐCS)