HỆ THỐNG THÔNG TIN ĐỊA LÝ (GIS) VÀ VIỄN THÁM TRONG KHAI THÁC VÀ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
(23/08/2019 12:00:00 SA)
Tóm
tắt
Hệ thống thông
tin địa lý (GIS) là hệ thống cung cấp thông tin vị trí từ dữ liệu địa lý. Một hệ
thống GIS bao gồm năm thành phần: phần cứng, phần mềm, dữ liệu, phương pháp và
con người. Các lựa chọn phần mềm cho GIS được cung cấp dưới hình thức thương mại
hoặc miễn phí thông qua các cộng đồng mã nguồn mở. Về bản chất, dữ liệu GIS thể
hiện các vị trí trong thế giới thực dưới dạng dữ liệu vectơ hoặc raster. Nhờ
công nghệ điện toán “đám mây”, dữ liệu địa không gian ngày càng được chia sẻ rộng
rãi dưới dạng dịch vụ dữ liệu và được sử dụng trong lập bản đồ trên web và điện
toán di động. Sự phổ biến của các thiết bị di động có cài đặt hệ thống định vị
địa lý (GPS) tạo ra một nguồn dữ liệu mới, quan trọng cho GIS. Ngoài ra, sử dụng
máy bay không người lái đang trở thành một phương pháp quan trọng phục vụ việc
thu thập dữ liệu. Những tiến bộ trong việc lập bản đồ trên web đã giúp tích hợp
dữ liệu GIS trong các ứng dụng trình duyệt web đa phương tiện hiện được sử dụng
làm các công cụ truyền thông.
Các
thành phần của GIS
Về cơ bản, hệ thống
thông tin địa lý (GIS) là một hệ thống máy tính dùng để lưu trữ và thao tác dữ
liệu địa lý. Một hệ thống GIS có thể được coi là một bản đồ với các dữ liệu
liên quan. Ví dụ, trong bản đồ GIS, bản đồ các vùng đất ngập nước sẽ không chỉ
đánh dấu các khu vực đất ngập nước mà còn bao gồm các thông tin cơ bản về từng
khu vực đất ngập nước như các loài thực vật, đặc điểm đất và chất lượng nước.
Tuy nhiên, một hệ thống GIS đầy đủ không chỉ là một hệ thống máy tính. Một hệ
thống GIS hoàn chỉnh bao gồm năm yếu tố chính: Phần cứng, Phần mềm, Dữ liệu,
Phương pháp và Con người.
Phần
cứng
Phần cứng cần
thiết cho Hệ thống thông tin địa lý phát triển từ các hệ thống dựa trên nền tảng
Unix có nối mạng đến các máy tính cá nhân có kết nối internet. Phần cứng cần
thiết khác bao gồm hệ thống định vị địa lý (GPS) để thu thập dữ liệu, máy in khổ
lớn (máy vẽ) để in bản đồ, máy quét khổ lớn để tạo dữ liệu từ các bản đồ cũ đã
được in trước đó. Máy bay không người lái được điều khiển từ xa cũng đang trở
thành một phần phổ biến của bộ công cụ GIS. Ngoài máy tính cá nhân, văn phòng làm
việc GIS cũng thường trang bị các máy chủ web và cơ sở dữ liệu địa lý, các ứng dụng trên máy tính cá nhân sẽ kết nối
tới các máy chủ này để sử dụng và chia sẻ dữ liệu.
Phần mềm hệ thống
thông tin địa lý đòi hỏi máy chủ có khả năng xử lý cao. Ngày nay, máy trạm GIS
điển hình sẽ bao gồm bộ xử lý cao cấp, ít nhất 16 GB RAM và thẻ video cao cấp để
xử lý đồ họa phức tạp. Do nhân viên GIS thường kiểm tra dữ liệu ở cả hai định dạng
bảng và bản đồ, cũng như quản lý tập tin, nên cần ít nhất hai màn hình lớn để thao
tác; một để hiển thị danh sách tập tin và/hoặc bảng dữ liệu và một để hiển thị
bản đồ.
Phần
mềm
Một hệ thống GIS
đầy đủ đòi hỏi một số loại phần mềm. Đứng đầu trong số đó là phần mềm chính của
máy tính được sử dụng để thao tác dữ liệu không gian địa lý. Phần mềm bổ sung
có thể bao gồm phần mềm cơ sở dữ liệu chi tiết được thiết kế để lưu trữ và hiển
thị dữ liệu địa lý, phần mềm để thu thập dữ liệu như GPS hoặc các giải pháp di
động và các gói lập bản đồ trên web khác nhằm tạo ra các trang lập bản đồ web tương
tác.
Công ty dẫn đầu
ngành về phần mềm GIS cốt lõi là Viện nghiên cứu hệ thống môi trường (Esri)
chuyên cung cấp các bộ ứng dụng ArcGIS. Các gói phần mềm cốt lõi của Esri về
ArcMap và ArcCatalog luôn có sẵn để đáp ứng nhu cầu mua phần mềm của người dùng
và việc truy cập được kiểm soát thông qua hoạt động quản lý giấy phép sử dụng
phần mềm. Người dùng mua các sản phẩm của Esri sẽ nhận được hỗ trợ kỹ thuật từ
phía công ty và cộng đồng toàn cầu sử dụng phần mềm tương tự. Tuy nhiên, do chi
phí cao nên một số tổ chức và quốc gia đang lựa chọn các giải pháp thay thế mã
nguồn mở.
Hiện có rất nhiều
giải pháp phần mềm GIS mạnh, miễn phí, mã nguồn mở. Các ứng dụng mã nguồn mở
thường không có sự hỗ trợ kỹ thuật từ phía công ty phát hành nhưng hầu hết đều
có những cộng đồng người dùng mạnh mẽ có thể cung cấp một mức độ hỗ trợ tuyệt vời.
Một số ví dụ về phần mềm GIS mã nguồn mở bao gồm QGIS, LibreOffice và
GeoServer. Các giải pháp mã nguồn mở cũng bao gồm cơ sở dữ liệu, dữ liệu di động
và phần mềm lập bản đồ trên web là những yếu tố bổ sung cho các ứng dụng GIS cốt
lõi.
Phần mềm lập bản
đồ trên web giúp hình thành nhiều chức năng cho GIS trong các trình duyệt web
phổ biến đã và đang trở thành một phần không thể thiếu trong văn phòng làm việc
GIS. Các trang lập bản đồ trên web như bản đồ Google và Bing đã trở nên phổ biến
ở nhiều văn phòng, tạo điều kiện cho nhiều người có thể dễ dàng lập bản đồ
tương tác cơ bản. Bản đồ web có thể được phát triển thêm thông qua chương trình
lập trình tùy chỉnh để cung cấp thêm nhiều công cụ, chức năng và dữ liệu vào
môi trường trình duyệt web. Đối với ngành công nghiệp GIS, lập bản đồ trên web
đã trở thành một công cụ phái sinh quan trọng của internet và điện toán đám
mây.
“Điện
toán đám mây”
Sự ra đời của hệ
thống máy tính cho phép truy cập từ xa giúp lưu trữ dữ liệu và chạy các ứng dụng—“Điện
toán đám mây” - đã thay đổi về cơ bản cách thức hoạt động của GIS. Điện toán
đám mây có thể vừa được coi là phần cứng vừa là phần mềm của GIS. Các máy chủ từ
xa và cơ sở hạ tầng liên quan mà các máy tính cục bộ kết nối tới là phần cứng,
tuy nhiên các văn phòng GIS địa phương thường không chịu trách nhiệm bảo trì phần
cứng đó. Phần mềm chạy trên các máy chủ từ xa cũng giúp giải phóng các nhóm GIS
địa phương khỏi việc bảo trì các gói phần mềm trên các máy tính cục bộ. Cũng
như các phần mềm GIS khác, các dịch vụ điện toán đám mây luôn có sẵn để đáp ứng
nhu cầu mua dịch vụ hoặc được cung cấp miễn phí thông qua các cộng đồng mã nguồn
mở.
Có lẽ tác động lớn
nhất của điện toán đám mây đến GIS là phần dữ liệu. Hiện nay, dữ liệu có thể được
lưu trữ trong môi trường đám mây, do đó, các nhà quản lý GIS có thể chia sẻ các
bản sao dữ liệu trực tiếp cho nhiều người dùng. Trong nhiều trường hợp, khi sử
dụng điện toán đám mây, người dùng GIS không cần phải tải dữ liệu xuống các máy
trạm cục bộ. Điều này giúp giảm bớt khó khăn trong việc đánh dấu phiên bản dữ
liệu và đảm bảo luôn lưu trữ dữ liệu mới nhất. Một số ví dụ phổ biến về điện
toán đám mây trong GIS bao gồm ArcGIS Online của Esri, GeoServer và OpenLayers.
Dữ
liệu
Dữ liệu địa không gian được phân loại
thành hai loại chính: vector và raster. Dữ liệu địa không gian vectơ gồm những
dữ liệu về vị trí, các tính năng tuyến tính hoặc các khu vực (điểm, đường hoặc
vùng). Dữ liệu vectơ thể hiện các dạng hình học và vị trí cụ thể của các đối tượng
không gian trên các bản đồ chuyên biệt. Ngược lại, dữ liệu địa không gian
raster thể hiện các tính năng dưới dạng mạng lưới các ô với kích thước thay đổi
cho từng tập dữ liệu. Bằng cách khái quát hóa các tính năng, dữ liệu raster cho
phép mô hình hóa và phân tích các bộ dữ liệu rất lớn. Hình 1 biểu thị các kiểu
dữ liệu vectơ và raster.
Hình 1. Dữ liệu vector ở bên trái được thể hiện dưới dạng raster ở bên phải. Độ
chính xác của dữ liệu raster phụ thuộc vào kích thước các ô được sử dụng để hiển
thị dữ liệu vector
Các loại dữ liệu
vectơ phổ biến bao gồm bản đồ số hóa, dữ liệu GPS hoặc bất kỳ dữ liệu nào chứa
vĩ độ và kinh độ cụ thể. Dữ liệu raster phổ biến bao gồm hình ảnh viễn thám và
vệ tinh, công nghệ đo khoảng cách bằng tia laser (LiDAR) và các mô hình số độ
cao (DEM). Cả dữ liệu vectơ và dữ liệu raster đều có nhiều loại tệp dữ liệu bao
gồm shapefiles, tệp cơ sở dữ liệu địa lý, GRID, JPEG2000 và các loại khác.
Ngày nay, trên
thế giới, “Dữ liệu lớn” ngày càng trở thành một nguồn dữ liệu quan trọng cho
các hoạt động áp dụng công nghệ GIS. Dữ liệu lớn là lượng dữ liệu khổng lồ được
thu thập, ví dụ như từ hàng triệu điện thoại di động tự động theo dõi vị trí.
Làm thế nào để thu thập, quản lý và phân tích dữ liệu lớn hiện là thách thức đối
với các nhóm làm việc về GIS.
Dù là nguồn hay
loại dữ liệu nào thì các đặc điểm chính về dữ liệu như cách thức và thời điểm
được thu thập hoặc tạo ra, mức độ chính xác nói chung và cách định dạng dữ liệu
phải được ghi lại dưới dạng siêu dữ liệu. Việc tạo ra các tài liệu hoặc bản ghi
siêu dữ liệu là một phương pháp quan trọng trong một hệ thống GIS đầy đủ chức
năng.
Phương
pháp
Phương pháp hoạt
động của GIS không chỉ là thao tác và phân tích dữ liệu mà còn bao gồm các quy
trình xoay quanh toàn bộ vòng đời dữ liệu từ thu thập đến trích xuất thông tin,
từ phân tích đến lưu trữ và chia sẻ. Điều quan trọng đối với một hệ thống GIS
là việc xây dựng bộ dữ liệu phù hợp (siêu dữ liệu) và các quy trình nghiệp vụ
bao gồm vòng đời dữ liệu. Chiến lược GIS dài hạn cũng sẽ bao gồm các phương
pháp để tạo dữ liệu mới và giám sát dữ liệu được thu thập trước đó. Điều này
giúp đảm bảo các thông tin mới nhất sẽ trả lời được các câu hỏi đặt ra và hỗ trợ
việc ra quyết định.
Con
người
Chắc chắn rằng,
không có một hệ thống GIS nào có thể tồn tại mà không có người vận hành nó.
Ngoài các chuyên gia về GIS và các chuyên gia thu thập dữ liệu, điều quan trọng
đối với các nhà quản lý, những người làm truyền thông và các nhà khoa học là phải
nắm bắt và hiểu rõ các nguyên tắc cơ bản của một hệ thống GIS. Điều này giúp sử
dụng thông tin vị trí trích xuất từ dữ liệu không gian địa lý một cách hiệu quả
và phù hợp hơn.
Các
xu hướng trong công nghệ GIS
Với sự ra đời và
lan rộng của điện toán di động kết hợp với internet và dịch vụ điện toán đám
mây để lưu trữ dữ liệu và cài đặt phần mềm, GIS đã phát triển từ một công nghệ
chỉ phục vụ công việc chuyên môn thành một công cụ được sử dụng ở nhiều lĩnh vực.
Mô hình quản lý dữ liệu mới này được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau đã
cải thiện đáng kể việc phân tán và sử dụng dữ liệu địa không gian. Những dữ liệu
này được gọi là “dịch vụ dữ liệu”. Dữ liệu mà GIS cung cấp đã trở thành phương
tiện chính để chia sẻ thông tin vị trí và bản đồ một cách có kiểm soát. Hiện
nay, các dịch vụ có thể được sử dụng trên các thiết bị di động và thông tin vị
trí được ghi lại bởi điện thoại di động đã trở thành một nguồn dữ liệu mới quan
trọng.
Ngày càng nhiều
dữ liệu mới được thu thập bằng máy bay không người lái. Máy bay không người lái
có nhiều kích cỡ và có thể mang theo bộ dụng cụ cảm biến đa dạng như máy ảnh có
độ phân giải cao, cảm biến hồng ngoại và LiDAR. Máy bay không người lái đã khắc
phục hiệu quả vấn đề quan trọng về mặt kỹ thuật và hậu cần khi thực hiện các nỗ
lực thu thập dữ liệu mục tiêu trong quá khứ.
Sự phát triển của
công nghệ lập bản đồ trên web cho phép thực hiện việc phân tích không gian địa
lý phức tạp và ánh xạ trên trình duyệt web và thiết bị di động mà không cần cài
đặt phần mềm trên máy tính của người dùng. Việc lập bản đồ hiện có thể được
tích hợp trên một trang web và các phương tiện khác để tạo ra các công cụ truyền
thông mạnh mẽ. Sản phẩm “Story Map” của Esri giúp đơn giản hóa việc tạo ra các
trang web tích hợp dữ liệu GIS với các công cụ đa phương tiện như vậy, sản phẩm
cũng ngày càng được sử dụng nhiều để tạo thuận lợi cho việc liên lạc.
1.1.1.
Ø Các nguồn dữ liệu
không gian
Tóm
tắt
Dữ liệu không
gian bao gồm dữ liệu sơ cấp (cá nhân tự thu thập) và dữ liệu thứ cấp (thu thập
bởi những người khác). Những dữ liệu này có thể được sử dụng trong nhiều bối cảnh
phân tích khác nhau. Dữ liệu không gian sẵn có được công bố ngày càng được tìm
kiếm dễ dàng với sự hỗ trợ của các công nghệ tiên tiến. Sử dụng dữ liệu thứ cấp
thường mang lại hiệu quả cao hơn, đồng thời tiết kiệm chi phí hơn so với việc
xây dựng dữ liệu sơ cấp.
Dữ
liệu sơ cấp
Dữ liệu sơ cấp
được nghiên cứu viên trực tiếp thu thập. Dữ liệu này có thể được thu thập cụ thể
cho một dự án nhất định, chẳng hạn như dữ liệu được quét hoặc số hóa, dữ liệu hệ
thống định vị toàn cầu (GPS) hoặc dữ liệu viễn thám. Dữ liệu được số hóa thường
là các tài liệu tham khảo cũ hơn như bản đồ giấy được tải dưới dạng tệp raster.
Các tính năng trên bản đồ có thể được chuyển đổi thành các điểm, các đường và
các vùng. Dữ liệu GPS cung cấp vị trí địa lý và thông tin về thời gian với đường
bao quát không giới hạn tới 4 hoặc hơn 4 vệ tinh GPS. Dữ liệu GPS có thể do cá
nhân thu thập để trả lời các câu hỏi cụ thể. Dữ liệu viễn thám có thể phát hiện
và theo dõi các đặc tính vật lý bằng camera, vệ tinh và thiết bị siêu âm dưới
nước. Ví dụ về dữ liệu viễn thám bao gồm địa hình, nhiệt độ và diệp lục (các
thông tin cụ thể xem phần viễn thám).
Dữ
liệu thứ cấp
Dữ liệu thứ cấp
được thu thập bởi người khác. Dữ liệu này có thể là dữ liệu sơ cấp do đồng nghiệp
thu thập hoặc có thể là dữ liệu mã nguồn mở có sẵn. Hiện có nhiều nguồn dữ liệu
thứ cấp cung cấp miễn phí dữ liệu sẵn có được công bố.
Dữ
liệu thứ cấp toàn cầu
Các nguồn cung cấp
dữ liệu thứ cấp sẵn có trên toàn cầu liên quan đến nghề cá và nuôi trồng thủy sản
bao gồm: Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ (NASA), Cơ quan Khí quyển và Đại
dương Hoa Kỳ (NOAA), Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) và Cơ quan Khảo
sát Địa chất Hoa Kỳ (USGS). Ví dụ: Viện đất đai USGS (https://landcover.usgs.gov/)
cung cấp những dữ liệu về sử dụng đất trên toàn cầu. Những dữ liệu này thường
được sử dụng trong các ứng dụng như bảo tồn đa dạng sinh học, đánh giá chất lượng
nước, thực vật khí hậu học và thay đổi độ che phủ đất theo thời gian. NowCOAST,
cung cấp dữ liệu thông qua Cổng thông tin bản đồ web của NOAA (https://nowcoast.noaa.gov/), là một ví dụ về dữ liệu
dự báo. Các ứng dụng của NowCOAST bao gồm dự báo về thủy triều và thời tiết, dự
báo hiện tượng tảo nở hoa có hại (để biết thêm thông tin, xem phần tảo nở hoa có hại) và nhiệt độ mặt
nước biển. Đối với dữ liệu thời gian thực, NASA Worldview (https://worldview.earthdata.nasa.gov/) cập nhật dữ liệu
liên tục ba giờ một lần cho các ứng dụng về đo lường chất lượng không khí, giám
sát lũ và quan sát bão nhiệt đới. Cụ thể, đối với dữ liệu môi trường, trình duyệt
dữ liệu môi trường của UNEP (http://geodata.grid.unep.ch/)
chứa hơn 500 biến khác nhau như nước ngọt, dân số, rừng, phát thải, khí
hậu, sức khỏe và GDP.
Dữ
liệu thứ cấp cấp vùng
Các nguồn cung cấp
dữ liệu thứ cấp sẵn có cấp vùng liên quan đến nghề cá và nuôi trồng thủy sản
bao gồm: Ủy hội sông Mê Kông, Dự án SERVIR - Mekong và một công cụ lưu trữ mới
- Open Development Mekong. Ví dụ, cổng thông tin dữ liệu của Ủy hội sông Mê
Kông (http://portal.mrcmekong.org/index)
cung cấp những dữ liệu thủy văn trong lịch sử và gần đây trên toàn bộ và trên
các nhánh sông chính của sông Mê Kông. SERVIR-Mekong (https://servir.adpc.net/)
là sự hợp tác mới giữa Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), NASA và Trung
tâm Phòng chống Thiên tai Châu Á (ADPC) nhằm mục đích “hợp tác với các đối tác
để tạo ra và/hoặc chia sẻ bộ dữ liệu địa không gian đáp ứng nhu cầu cụ thể của
người dùng”. Các bộ dữ liệu hiện có bao gồm tính phù hợp của canh tác lúa, các
khu bảo tồn và mặt nước theo mùa; các bộ dữ liệu khác liên quan đến nghề cá và
nuôi trồng thủy sản có thể được phát triển thông qua các dự án SERVIR-Mekong
trong tương lai. Ngoài ra, Open Development Mekong (https://opendevelopmentmekong.net/) là một nền tảng cung cấp
dữ liệu cộng đồng mới dành riêng cho việc tìm kiếm các thông tin liên quan đến
khu vực Mê Kông “nhằm mở rộng các nguồn tài nguyên sẵn có được công bố về các
chủ đề liên quan đến Hạ lưu sông Mê Kông”. Các lĩnh vực chủ đề bao gồm nông
nghiệp và thủy sản, năng lượng, môi trường và tài nguyên thiên nhiên, đất đai,
dân số và tổng điều tra dân số.
Ví
dụ: Phân tích biến đổi khí hậu
Ví
dụ về việc sử dụng dữ liệu không gian trong khu vực, Viện Quản lý Nước Quốc tế
(IWMI) có thể so sánh các dự báo về nhiệt độ và lượng mưa cho tất cả các nước
Đông Nam Á. Dựa trên Báo cáo đặc biệt của Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí
hậu (IPCC) về các kịch bản phát thải (SRES) với các kịch bản A2 (tăng trưởng
dân số cao, tăng trưởng kinh tế chậm, thay đổi công nghệ) và B2 (tăng trưởng
dân số vừa phải, phát triển kinh tế với mức độ thay đổi công nghệ chậm nhưng đa
dạng) , IWMI đã đưa ra dự báo về sự gia tăng nhiệt độ hàng năm và sự thay đổi
lượng mưa hàng năm (một số tăng và một số giảm) trên toàn khu vực bằng cách sử
dụng mô hình mô phỏng khí hậu Providing Regional Climate for Impact Studies
(PRECIS) trong giai đoạn 1960-2049. Mùa mưa được dự báo là ẩm ướt hơn (lượng
mưa tích lũy nhiều hơn), khả năng xảy ra lũ lụt cao hơn. Mặc dù lượng mưa lớn
hơn trong mùa mưa, số ngày hạn hán có khả năng tăng lên do nhiệt độ tăng cao và
sự gia tăng của hiện tượng bốc hơi nước. Để biết thêm thông tin, vui lòng tham
khảo Báo cáo nghiên cứu 136 của IWMI.
VIFEP (TH-Hội thảo USAID)
|