Mục tiêu đặt ra trong Chương trình Quốc gia Bảo vệ và Phát triển
Nguồn lợi Thủy sản đến năm 2030 là 100% các hồ tự nhiên, hồ chứa lớn và
hệ thống sông chính được điều tra, đánh giá nguồn lợi và môi trường sống
của loài thủy sản. Trữ lượng nguồn lợi thủy sản ở biển phục hồi, tăng
trên 5% so với kết quả điều tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản giai đoạn
2016-2020.
Chương trình được Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang ký quyết định phê duyệt ngày 18/1/2024.
Mục
tiêu chung của Chương trình là bảo tồn, bảo vệ, tái tạo nguồn lợi thủy
sản nhằm phục hồi và sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn lợi thủy sản và các
hệ sinh thái thủy sinh; gắn hoạt động tuần tra, kiểm tra, kiểm soát,
quản lý nguồn lợi thủy sản với hoạt động khai thác thủy sản bền vững,
chống khai thác IUU.
Chương trình nhằm nâng cao nhận thức của
cộng đồng và xã hội về bảo tồn, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản
góp phần phát triển thủy sản bền vững, giữ gìn tính đa dạng sinh học,
giá trị tài nguyên sinh vật của Việt Nam; chủ động ứng phó có hiệu quả
với biến đổi khí hậu và nước biển dâng; thúc đẩy Tăng trưởng Xanh, nâng
cao đời sống và sinh kế cho người dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh, chủ
quyền quốc gia.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2030 hoàn thành kế hoạch
điều tra, đánh giá đa dạng sinh học, nguồn lợi thủy sản và môi trường
sống của các loài thủy sản ở biển Việt Nam bao gồm cả vùng biển sâu, các
bãi cạn, gò đồi ngầm theo Luật Thủy sản; điều tra, đánh giá nghề cá
thương phẩm hằng năm tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ven
biển.
100% các hồ tự nhiên, hồ
chứa lớn và hệ thống sông chính được điều tra, đánh giá nguồn lợi và môi
trường sống của loài thủy sản. Trữ lượng nguồn lợi thủy sản ở biển phục
hồi, tăng trên 5% so với kết quả điều tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản
giai đoạn 2016-2020.
100% các khu bảo tồn biển, khu vực cư trú nhân tạo cho loài thủy sản ở
biển theo Quy hoạch Bảo vệ và Khai thác Nguồn lợi Thủy sản được hình
thành, quản lý và hoạt động theo quy định của pháp luật thủy sản.
10%
số lượng loài thủy sản trong Danh mục loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm
được sinh sản nhân tạo, ương nuôi thành công; 20% số lượng loài thủy
sản nguy cấp, quý, hiếm được lập hồ sơ, giám sát, đánh giá.
100%
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức hoạt động thả tái tạo
nguồn lợi thủy sản vào vùng nước tự nhiên hàng năm; 60% các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương thực hiện đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi
thủy sản gắn với xây dựng nông thôn mới, phát triển du lịch sinh thái.
Hệ
thống cơ sở dữ liệu thành phần về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy
sản thuộc cơ sở dữ liệu quốc gia về thủy sản được nâng cấp, tích hợp,
liên thông giữa cơ quan quản lý cấp trung ương và địa phương theo hướng
đồng bộ, thống nhất, phục vụ công tác quản lý.
Để đạt được các
mục tiêu trên, Chương trình đề ra các giải pháp: hoàn thiện cơ chế,
chính sách; tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bảo vệ và phát triển
nguồn lợi thủy sản; nâng cao năng lực quản lý và phát triển nguồn nhân
lực trong bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản; triển khai thực hiện
đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản; khoa học công nghệ và hợp
tác quốc tế.
Cụ thể, về hoàn thiện cơ chế, chính sách: sửa đổi,
bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý, bảo vệ và phát
triển nguồn lợi thủy sản; hoàn thiện và tổ chức thực hiện chính sách
chuyển đổi nghề, đa dạng hóa sinh kế cho cộng đồng dân cư sống trong và
xung quanh khu bảo tồn biển, cộng đồng ngư dân khai thác thủy sản tại
vùng biển ven bờ; chính sách hỗ trợ ngư dân trong thời gian cấm khai
thác thủy sản; chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề khai thác thủy sản ảnh
hưởng lớn đến nguồn lợi thủy sản, môi trường, hệ sinh thái sang các nghề
khai thác thủy sản thân thiện với môi trường hoặc chuyển ra ngoài lĩnh
vực khai thác thủy sản.
Cùng với đó, xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách huy động và
sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong nước và ngoài nước trong công tác
bảo tồn, bảo vệ, tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản, phục hồi các
hệ sinh thái thủy sinh; hỗ trợ thực hiện đồng quản lý trong bảo vệ nguồn
lợi thủy sản; cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các lực lượng chức năng
(kiểm ngư, thanh tra chuyên ngành thủy sản, kiểm lâm, bộ đội biên phòng,
cảnh sát biển, cảnh sát giao thông đường thủy, cảnh sát phòng chống tội
phạm về môi trường, công an địa phương) để thực hiện tốt công tác kiểm
tra, kiểm soát, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong các
hoạt động thủy sản trên biển và trong vùng nội địa.
Một
giải pháp nữa là rà soát, xây dựng bổ sung, ban hành quy trình và định
mức kinh tế kỹ thuật trong: điều tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản và môi
trường sống của loài thủy sản; quan trắc, giám sát biến động môi
trường, nguồn lợi thủy sản và đa dạng sinh học; lưu giữ giống gốc các
loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm; trồng phục hồi san hô, cỏ biển; thả
rạn nhân tạo làm nơi cư trú cho các loài thủy sản; xây dựng bộ chỉ số và
tài liệu hướng dẫn đánh giá hoạt động tái tạo nguồn lợi thủy sản và
phục hồi hệ sinh thái, môi trường sống của loài thủy sản.
VIFEP (VN)