Đồng quản lý trong nghành thủy sản - (Kỳ I) Đặc điểm tự nhiên và sự hình thành các cộng đồng nghề cá
(12/09/2013 12:00:00 SA)
Biển
nước ta có diện tích vùng đặc quyền kinh tế trên 1triệu km2 bao gồm cả
vùng biển quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, với nguồn lợi, tài
nguyên phong phú. Dọc theo bờ biển có 112 cửa sông, thuận lợi cho các
tàu đánh cá làm căn cứ neo đậu và ra khơi. Bờ biển trải dài, địa hình
khúc khuỷu.Ven bờ biển có 4 loại hình thủy vực: vịnh nhỏ ven biển
(bays); vụng biển, còn gọi là đầm phá (lagoons); vùng cửa sông châu
thổ (delta) và vùng cửa sông hình phễu (estuaries). Dọc bờ biển, giữa
các luồng lạch, cửa sông thường là các bãi ngang (sand bank). Độ sâu của
từng vùng biển khác nhau, có liên quan mật thiết đến sự phân bố ngư
trường, các đàn cá, đến sức cản của lưới, chiều dài cáp kéo, chiều dài
giây ganh, chiều cao của lưới, trang bị phao, chì…Độ sâu của Vịnh Bắc Bộ
và các vùng biển Đông, Tây Nam Bộ tương đối giống nhau, có đáy biển
tương đối bằng phẳng nên thuận lợi cho nghề lưới kéo, thích hợp với nghề
lưới vây, lưới rê…Vùng biển miền Trung (φ 17˚00-11˚20’N) có đường đẳng
sâu 30-100m nước song song với bờ và chỉ cách bờ 3-10 hải lý. Đường đẳng
sâu 200m và 500m cũng chỉ cách bờ từ 20-40 hải lý. Độ sâu lớn nhất
trong khu vực này đạt trên 4.000m. Vùng biển miền Trung thích hợp với
các nghề khai thác cá nổi. Trên các vùng biển có nhiều vùng rạn, nhất là
Vịnh Bắc Bộ và biển miền Trung, vùng Hoàng Sa, Trường Sa, nơi có nhiều
loài hải sản có giá trị tập trung sinh sống như tôm hùm, cá mập, mực
nang, cá mú, cá hồng, cá song, cá sạo… Có rạn đá và rạn san hô. Các nghề
đánh bắt hải sản thích hợp là rê cước, câu, bóng, bẫy…
Sản xuất thủy sản luôn gắn liền với nước, với các điều kiện tự nhiên,
luôn chịu sự tác động, chi phối; bị ảnh hưởng, ràng buộc, giới hạn bởi
các yếu tố môi trường, nguồn lợi, khí hậu, thời tiết, nhiệt độ, địa
hình, dòng chảy…Khai thác thủy sản là khai thác tài nguyên sinh vật sống
dưới nước, có tập tính di chuyển theo không gian và thời gian, có qui
luật sinh tồn, tái tạo, phát triển, diệt vong. Nuôi trồng thủy sản là
khai thác tiềm năng đất, mặt nước để lưu giữ, nuôi dưỡng, phát triển các
giống loài thủy sinh theo mùa vụ, tạo nguồn cung cấp thực phẩm chủ động
cho tiêu dùng, nguồn nguyên liệu ổn định cho các ngành công nghiệp chế
biến thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm…Các nguồn tài nguyên đó sẽ là vô tận,
bởi khả năng tái tạo nếu khai thác hợp lý, đúng qui luật hoặc sẽ bị cạn
kiệt, thậm chí bị hủy diệt nếu khai thác tự phát, xâm hại môi trường,
quá ngưỡng giới hạn cho phép của tự nhiên.
Đặc điểm địa hình, phân bố độ sâu đáy biển và các loại hình thủy vực eo
vịnh, đầm phá, vùng cửa sông hình phễu, vùng đất ngập nước châu thổ, ven
các dòng sông, các ao, hồ lớn, các vùng ruộng trũng... tác động, ảnh
hưởng lớn đến sự hình thành các loại nghề khai thác, các loại hình NTTS.
Cơ cấu các nghề khai thác trên eo vịnh khác cơ cấu các nghề trong đầm
phá, khác các nghề vùng bãi ngang, vùng cửa sông hay vùng châu thổ. Các
mẫu thiết kế tàu cá dân gian cũng có những đặc điểm khác nhau. Các mẫu
tàu khai thác ở Vịnh Bắc Bộ, khác vùng Đông, Tây Nam Bộ, khác các mẫu
tàu vùng biển miền Trung. Các nghề, các mô hình tổ chức nuôi trồng, đối
tượng NTTS giữa các vùng cũng có những nét khác biệt. Miền Bắc nuôi các
thủy đặc sản truyền thống, vùng núi cao nuôi cá nước lạnh, miền Trung
sản xuất các loài giống hải sản và nuôi tôm công nghiệp, đồng bằng sông
Cửu Long nuôi tôm sinh thái, nuôi cá tra thâm canh cao sản…Từ những đặc
điểm riêng có của từng vùng, được tạo nên do điều kiện tự nhiên, hình
thành nên các ngành nghề, kỹ năng sản xuất, tạo nên sự phong phú, đa
dạng trong phong tục tập quán, truyền thống, thói quen của các tổ chức
cộng đồng với các bản sắc riêng, đặc trưng của văn hóa các làng cá, các
vạn chài, vạn đò, các tổ hợp sản xuất nuôi trồng, chế biến, hậu cần dịch
vụ thủy sản. Các cộng đồng làng cá, vạn chài, vạn đò hình thành trên cơ
sở các yếu tố tự nhiên, từ thực tiễn sản xuất nghề cá, cùng sống trong
một phạm vi hành chính thôn/bản/làng; cùng làm chủ một ngư trường, một
vùng đất, mặt nước; cùng sản xuất một loại ngành/nghề trong khai
thác/nuôi trồng/chế biến/hậu cần dịch vụ; cùng chia xẻ lợi ích, trách
nhiệm bảo vệ tài nguyên, nguồn lợi thủy sản, do đó sự gắn kết tổ chức
của cộng đồng rất bền chặt.
Sự hình thành cộng đồng nghề cá-một mô hình tổ chức xã hội-xuất phát
từ tự nhiên (có tính chất tự nhiên), trên cơ sở kinh tế (các ngành nghề
sản xuất) là đặc điểm đặc thù, là luận cứ minh chứng tính khoa học, sự
tất yếu của đồng quản lý (quản lý dựa vào cộng đồng) trong ngành thủy
sản.
Báo cáo “50 năm Thủy sản Việt nam” đã tổng kết:
“Đặc điểm lớn nhất của nghề cá Việt Nam là sự gắn kết chặt chẽ với điều
kiện, môi trường tự nhiên, chịu sự tác động, chi phối, ràng buộc và bị
khống chế giới hạn bởi ngưỡng bền vững của điều kiện tự nhiên. Khai thác
nguồn lợi sinh vật tự nhiên sống dưới nước là hoạt động khai thác tài
nguyên - tài sản chung của cộng đồng, của đất nước. Hơn thế nữa, đối với
các loài cá di cư trên biển, thì nguồn lợi này còn là tài sản chung của
các quốc gia có cùng đại dương. Trong nuôi trồng thủy sản, hoạt động
sản xuất luôn tác động, ảnh hưởng tới môi trường vực nước, nguồn nước
chung –tài sản chung của cộng đồng trong từng khu vực và của cả quốc
gia. Đây là đặc điểm cực kỳ quan trọng của kinh tế thủy sản. Cần thích
ứng với đặc điểm này trong quản lý sở hữu chung. Cần có những chính
sách, những chế tài phù hợp trong quản lý môi trường nguồn lợi, bảo đảm
cho sự phát triển ổn định, bền vững. Tăng cường vai trò quản lý của nhà
nước, nâng cao trách nhiệm quản lý của cộng đồng, cùng các biện pháp,
các bước đi trong hợp tác quốc tế là những giải pháp tiến tới phương
pháp đồng quản lý văn minh, hiện đại”[trang 9-NXB Nông nghiệp năm 2013].
Từ xa xưa, trước thế kỷ XVI, các triều đình phong kiến đã giao cho các
vạn chài quản lý những thủy vực, dựa trên các đơn vị nghề và xác nhận
quyền sử dụng làm cơ sở thu thuế tài nguyên. Thực hiện sắc lệnh của nhà
vua, tại các cộng đồng, các vạn chài đã cùng nhau lập nên các Hương ước
để quản lý sản xuất, để bảo vệ phát triển nguồn lợi thủy sản, bảo vệ
nguồn sống của cộng đồng. “Đồng quản lý, quản lý dựa vào cộng đồng
hay quản lý trên cơ sở cộng đồng thực chất không có gì xa lạ với ông
cha chúng ta. Có xa lạ chăng do chúng ta đã từng xa lánh các phương cách
quản lý đó”. Như vậy, từ thực tiễn cuộc sống, từ nhu cầu sinh tồn,
phương thức đồng quản lý đã ra đời, tồn tại trong xã hội nghề cá nước
ta cách đây khoảng trên 500 năm. Đấy là quy luật tự nhiên, là xu hướng
tất yếu trong quản lý nghề cá.
TS. Ngô Anh Tuấn
(Còn tiếp)
|